Thương mại song phương Việt Nam

Thời điểm thuận lợi để thúc đẩy xuất khẩu, đầu tư sang Liên bang Nga Xuất khẩu thủy sản sang Nga tăng 105,5%

Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 7 tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga đạt 2,74 tỷ USD, tăng 45,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu đạt 1,36 tỷ USD, tăng 46,4%; nhập khẩu đạt 1,38 tỷ USD, tăng 44,6%.

Trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu sang Nga, nhiều nhóm hàng tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng. Dẫn đầu là mặt hàng sắt thép các loại, với kim ngạch đạt 697,9 triệu USD, tăng 166% về giá trị và 240% về khối lượng. Tiếp theo là các sản phẩm bánh kẹo và ngũ cốc, đạt 18,1 triệu USD (tăng 116%); thủy sản đạt 116,7 triệu USD (tăng 105%); và dệt may đạt 458,9 triệu USD (tăng 95,7%).

7 tháng đầu năm, sắt thép của Việt Nam xuất khẩu sang Nga tăng 166%
7 tháng đầu năm, xuất khẩu sắt thép các loại sang Nga đạt 697,9 triệu USD, tăng 166% về giá trị và 240% về khối lượng. Ảnh: Báo Chính phủ

Gạo đạt 4,7 triệu USD (tăng 92,6% về giá trị và 61% về khối lượng); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,2 triệu USD (tăng 75%); hạt tiêu đạt 15,7 triệu USD (tăng 98,4% về giá trị, tăng 48,2% về khối lượng); máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 141,1 triệu USD (tăng 91%); hạt tiêu đạt 15,7 triệu USD (tăng 60%) tuy nhiên các mặt hàng này giữ nguyên hoặc tăng không đáng kể so với thời điểm 6 tháng đầu năm 2024. Mặt hàng túi xách, ví, vali, mũ, ô dù trong 7 tháng đầu năm đã tiếp tục đà phục hồi đạt 10,7 triệu USD (tăng 27,3%).

Xuất khẩu mặt hàng giày dép các loại tiếp tục duy trì xu hướng giảm từ đầu năm 2024 so với kim ngạch xuất khẩu cùng kỳ năm 2023, đạt 6,1 triệu USD (giảm 52,6%); sản phẩm gốm sứ đạt 826 ngàn USD (giảm 33%). Tình trạng tương tự đối với mặt hàng chè nhưng tỷ lệ giảm thấp hơn, đạt 6,5 triệu USD (giảm 7,8%); sản phẩm từ cao su đạt 4,7 triệu USD (giảm 20,2%).

Cũng trong 7 tháng đầu năm 2024, phân bón tiếp tục đứng đầu danh sách tăng trưởng nhập khẩu từ Liên bang Nga cả về giá trị (165,5 triệu USD, tăng 325%) và khối lượng (364 ngàn tấn, tăng gần 400%) so với cùng kỳ năm 2023.

Than các loại đạt 657 triệu USD (tăng 46,4% về giá trị và 68% về khối lượng); hóa chất đạt 54,1 triệu USD (tăng 83,8%); giấy các loại đạt 6,6 triệu USD (tăng 173,6%); linh kiện phụ tùng ô tô đạt 16,7 triệu USD (tăng 162%); phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 3,6 triệu USD (tăng 98,4%).

Sản phẩm lúa mì tiếp tục đà tăng trưởng so với 6 tháng năm 2024, đạt 26,8 triệu USD, tăng 93,1% về giá trị và 78,2% về khối lượng, cùng kỳ năm 2023 nước ta không nhập khẩu lúa mì.

Hàng thủy sản tiếp tục duy trì xu hướng giảm trong các tháng vừa qua, đạt 64,1 triệu USD (giảm 11,1%); Sản phẩm khác từ dầu mỏ đạt 988 ngàn USD (giảm 47,2%); Dây điện, dây cáp điện tiếp tục giảm mạnh, đạt 146 ngàn USD (giảm 70,6%); sản phẩm hóa chất đạt 1,1 triệu USD (giảm 24,7%). Sắt thép các loại đạt 177 ngàn USD, tăng 109% so với 6 tháng năm 2024, giảm 82,7% so với 7 tháng năm 2023.

Theo các chuyên gia, sự gia tăng nhanh chóng trong kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nga chủ yếu nhờ vào Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu (Việt Nam – EAEU FTA), tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư.



Source link